Bệnh sốt rét là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến, bệnh có khả năng lây từ người qua người thông qua các vết chích của muỗi Anophen. Bệnh gây ra với các triệu chứng đau đầu, sốt, lạnh run và dễ tử vong nên cần được phát hiện và điều trị sớm.

Sốt rét là bệnh gì?

Sốt rét là một dạng bệnh lý nguy hiểm do kí sinh trùng sốt rét có tên Plasmodium gây nên. Người mắc bệnh sau khi bị muỗi Anophen đốt từ 10 -15 ngày, gây ra với các triệu chứng đau đầu, sốt, lạnh run và dễ tử vong. Bệnh có thể lây truyền qua đường truyền máu, mẹ sang con, dùng chung bơm kim tiêm dính máu có ký sinh trùng sốt rét hoặc bị muỗi đốt.

Bệnh sốt rét có thể chữa khỏi hoàn toàn nếu điều trị sớm và đúng cách.  Đối với hầu hết các ca bệnh nặng phải có chế độ chăm sóc và điều trị đặc biệt, tỉ lệ tử vong có thể lên đến 20%.

Ở trẻ nhỏ bị sốt rét có khả năng ảnh hưởng lớn đến tương lai của các em do sốt rét gây mất máu, tổn thương não trong trường hợp sốt rét thể não. Dù các em được chữa khỏi nhưng cũng có nguy cơ cao bị suy giảm thần kinh, nhận thức, động kinh và rối loạn hành vi.

Bệnh sốt rét khi xuất hiện, nếu không có những biện pháp ngăn chặn kịp thời trong cộng đồng sẽ gây ra những tình trạng lây lan rộng rãi.

Nguyên nhân gây sốt rét

Tác nhân chủ yếu gây ra sốt rét là loài ký sinh trùng sốt rét thuộc chi Plasmodium. Có 5 loài ký sinh trùng thuộc chi này truyền nhiễm bệnh sốt rét ở người, bao gồm:

  • Plasmodium falciparum: cực kỳ nguy hiểm.
  • Plasmodium malariae: gây bệnh nhưng nguy cơ tử vong thấp hơn.
  • Plasmodium ovale: cũng gây bệnh nhưng ít biến chứng tử vong.
  • Plasmodium vivax: nguy hiểm ngang với loài Plasmodium falciparum.
  • Plasmodium knowlesi: gây sốt rét trên loài khỉ, thường hoạt động ở khu vực Đông Nam Á nhưng vẫn có thể lây bệnh cho con người.

Ký sinh trùng sốt rét không tồn tại ở môi trường bên ngoài, chỉ tồn tại trong máu người và trong cơ thể muỗi truyền bệnh.

Trung gian truyền bệnh: muỗi Anopheles

Trên thế giới có khoảng 422 loài Anopheles nhưng chỉ có khoảng 70 loài truyền bệnh sốt rét, trong đó khoảng 40 loài là muỗi truyền bệnh chính. Ở Việt Nam có 15 loài Anopheles truyền bệnh, trong đó có 3 loài truyền bệnh chính là Anopheles minimus, Anopheles dirus và  Anopheles epiroticus.

Sau khi muỗi truyền bệnh đốt và hút máu người bệnh có giao bào, giao bào đực và cái sẽ kết hợp trong dạ dày muỗi thành noãn. Noãn chui qua thành dạ dày và tạo thành kén ở mặt ngoài dạ dày, tại đây ký sinh trùng phát triển tạo thành hàng nghìn ký sinh trùng non gọi là thoa trùng. Khi kén vỡ giải phóng thoa trùng, thoa trùng di chuyển lên tập trung trong tuyến nước bọt của muỗi. Ở nhiệt độ môi trường từ 20-300C, sau 10 ngày, ký sinh trùng hoàn thành chu kỳ phát triển hữu tính trong cơ thể muỗi và có thể truyền bệnh đến khi muỗi chết. Ở nhiệt độ này, muỗi có thể sống được khoảng 4 tuần.

Ổ chứa: người là ổ chứa duy nhất của ký sinh trùng sốt rét

Thời kỳ lây truyền

Thời gian từ cơn sốt đầu tiên đến khi xuất hiện giao bào trong máu là 2-3 ngày đối với Plasmodium vivax, Plasmodium malariae, Plasmodium ovale và từ 7-10 ngày với Plasmodium falciparum. Bệnh nhân còn là nguồn lây khi còn giao bào trong máu.

Những bệnh nhân không được điều trị hoặc điều trị không triệt để có thể là nguồn lây cho muỗi tới trên 3 năm đối với Plasmodium malariae, 2 năm đối với Plasmodium vivax và 1 năm đối với Plasmodium falciparum.

Máu dự trữ nhiễm ký sinh trùng sốt rét có thể truyền bệnh trong ít nhất 1 tháng.

Phương thức lây truyền bệnh sốt rét

Ký sinh trùng gây bệnh sốt rét không thể tồn tại ở môi trường bên ngoài, chỉ có trong máu người nhiễm bệnh và ở muỗi Anophen truyền bệnh. Nguồn máu từ người nhiễm bệnh có thể lây truyền bệnh sốt rét kéo dài ít nhất 1 tháng. Bệnh sốt rét lây truyền qua đường máu với 4 phương thức lây truyền:

  • Muỗi truyền: Đây là phương thức chủ yếu để bệnh sốt rét lây lan.
  • Truyền máu: Ở một số trường hợp hy hữu, người hiến máu (dạng người lành mang mầm bệnh) có nhiễm ký sinh trùng sốt rét nhưng không hay biết và hiến máu cho người khác. 
  • Mẹ truyền sang con: Thai phụ mắc sốt rét sẽ truyền sang con qua nhau thai và đối diện nguy cơ sảy thai, sinh non. Nguyên nhân do người mẹ bị thiếu máu, bệnh diễn biến nặng, hạ đường huyết, phù phổi cấp. May mắn, tỷ lệ thai phụ bị sốt rét rất hiếm gặp.
  • Tiêm chích: Bơm tiêm dính máu có ký sinh trùng sốt rét, do tiêm chích ma tuý chung với người mang mầm bệnh.

Thời gian ủ bệnh

Mỗi loài ký sinh trùng khác nhau sẽ có thời gian ủ bệnh tới khi biểu hiện các triệu chứng lâm sàng khác nhau. Cụ thể:

  • Plasmodium falciparum: từ 9 – 14 ngày (trung bình là 12 ngày).
  • Plasmodium malariae: từ 20 đến thậm chí vài tháng.
  • Plasmodium vivax: từ 12 – 17 ngày (trung bình là 14 ngày).
  • Plasmodium ovale: từ 11 ngày đến 10 tháng.

Nếu bị sốt rét do lây nhiễm từ việc truyền máu thì thời gian ủ bệnh còn tùy theo lượng ký sinh trùng tồn tại trong máu truyền vào, nhưng trung bình thời gian ủ bệnh khá ngắn chỉ kéo dài trong vài ngày là bắt đầu có triệu chứng.

Những triệu chứng của bệnh

Dựa trên phân loại của Tổ chức Y tế thế giới WHO về bệnh sốt rét, có 2 mức độ lâm sàng của bệnh sốt rét đang lưu hành tại Việt Nam đó là sốt rét thông thường và sốt rét ác tính. Mỗi thể lâm sàng lại có các dấu hiệu khác nhau.

Sốt rét thông thường

Người bệnh sốt rét có những dấu hiệu thường gặp như sốt, ớn lạnh, đau đầu, đau bụng, mệt mỏi, thở nhanh, nhịp tim nhanh, ho, mệt mỏi, đau cơ khớp, tiêu chảy.
Những triệu chứng ban đầu này thường không đe dọa tính mạng người bệnh. Tùy vào cơ địa mỗi người mà bệnh sẽ có những biểu hiện khác nhau.
Nếu như sốt điển hình thì người bệnh sẽ trải qua 3 giai đoạn: Rét run – sốt – vã mồ hôi. Còn sốt không điển hình thì người bệnh có những biểu hiện chung như: Sốt không thành cơn hoặc sốt liên tục, ớn lạnh, rét, nổi da gà. Một số trường hợp, người bệnh bị phình to lách, gan to, người xanh xao, suy nhược, thiếu máu.

Dấu hiệu sốt rét ác tính

Sốt rét ác tính là dạng sốt rét nguy kịch, chủ yếu do ký sinh trùng P. falciparum gây ra.
Bệnh gây tắc nghẽn các mao mạch nhỏ, dẫn đến rối loạn tuần hoàn, giảm tưới máu đến các cơ quan và gây tổn thương não.
Người bệnh có biến chứng nguy hiểm đe dọa tính mạng, với dấu hiệu sốt rét như sốt cao liên tục, rối loạn ý thức (mơ sảng, nói lẩm bẩm, ngủ li bì), rối loạn tiêu hóa (ói mửa, buồn nôn, tiêu chảy, đau bụng), đau đầu dữ dội, nhìn lờ đờ, da tái xanh,…
Ngoài ra, người bệnh thiếu máu nặng, suy thận, phù phổi cấp, hạ đường huyết, sốc, xuất huyết, co giật toàn thân, vàng da, sốt cao,… Sốt rét ác tính nếu không được điều trị kịp thời thì tỷ lệ tử vong rất cao.

Sốt rét ở trẻ em

Trẻ trên 6 tháng tuổi dễ mắc sốt rét do không còn miễn dịch từ mẹ và huyết sắc tố F. Trẻ mắc bệnh sốt rét thường sốt cao liên tục hoặc dao động, nôn, tiêu chảy, bụng chướng, gan lách to, có dấu hiệu màng não và co giật. Tỷ lệ tử vong cao.

Sốt rét ở phụ nữ có thai

Đây là đối tượng dễ gặp sốt rét ác tính và nguy cơ cao sẽ dẫn tới sảy thai, thai lưu hoặc bị sinh non.

Sốt rét bẩm sinh

  • Tình trạng này khá hiếm gặp, thường là do mẹ bị sốt rét khi mang thai khiến cho tế bào nhau thai bị tổn thương.
  • Trẻ có biểu hiện sốt rét ngay khi chào đời: sốt, quấy khóc, gan lách to, vàng da.
Loại bỏ muỗi Anophen là cách phòng bệnh hiệu quả

Những biến chứng nguy hiểm của bệnh

Trong số các loài ký sinh trùng gây bệnh sốt rét thì đáng sợ nhất là plasmodium, dễ khiến người bệnh rơi vào sốt rét ác tính. Những biến chứng nguy hiểm của bệnh sốt rét gây ra nghiêm trọng như:

  • Sốt rét thể não: Các mạch máu nhỏ không thể lưu thông đến não do các tế bào máu chứa đầy ký sinh trùng bị bít lại, dẫn đến phù não, tổn thương não. Người bệnh có dấu hiệu co giật và hôn mê. Riêng trẻ em dễ mất máu và tổn thương não, đối diện nguy cơ suy giảm thần kinh và nhận thức, rối loạn hành vi, động kinh.
  • Phù phổi: Cơ thể người bệnh tích tụ các dịch tiết gây phù phổi, khó thở, dễ dẫn đến tử vong.
  • Suy nội tạng: Suy thận, suy gan hoặc vỡ lá lách khiến cơ thể rơi vào nguy kịch. 
  • Thiếu máu: Cơ thể không có đủ tế bào hồng cầu làm nhiệm vụ đưa oxy đi nuôi các mô trong cơ thể. 
  • Hạ đường huyết: Người bệnh đối diện hôn mê, thậm chí tử vong bởi tình trạng hạ đường huyết xảy ra. Người bệnh bị hạ đường huyết không chỉ do bệnh gây ra mà còn do tác dụng phụ của thuốc quinine điều trị sốt rét.

Bệnh sốt rét nặng có thể tiến triển rất nhanh chóng và sớm tử vong trong vài giờ đến vài ngày. Với hầu hết các ca bệnh nặng, tỷ lệ tử vong có thể lên đến 20% do đó cần chăm sóc và điều trị đặc biệt.

Chẩn đoán và điều trị bệnh

Chẩn đoán bệnh sốt rét

Các phương pháp xét nghiệm:

  • Nhuộm Giemsa: Được coi là chuẩn vàng để xác định ký sinh trùng sốt rét. Lam máu nhuộm giemsa được soi dưới kính hiển vi quang học.
  • Nhuộm nhanh AO: Mẫu máu của người bệnh được soi dưới kính hiển vi huỳnh quang.
  • Phương pháp QBC soi kính hiển vi huỳnh quang.
  • Test nhanh dựa trên phương pháp miễn dịch sắc ký phát hiện kháng nguyên ký sinh trùng sốt rét hiện diện trong máu.
  • Sinh học phân tử PCR: Độ nhạy và độ đặc hiệu cao, có thể phát hiện ký sinh trùng/mm3 máu, thậm chí giúp chẩn đoán được sốt rét tái phát hay sốt rét tái nhiễm.
  • Phát hiện kháng thể sốt rét: Phương pháp huỳnh quang gián tiếp và phương pháp liên kết lên men hấp thụ miễn dịch đều phát hiện kháng thể trong huyết thanh bệnh nhân sốt rét.

Điều trị sốt rét

Điều trị cắt cơn sốt

Nhiễm Plasmodium vivax

  • Dùng thuốc sốt rét Chloroquine tổng liều 25mg/kg cân nặng chia 3 ngày điều trị: ngày 1 và ngày 2 uống 10 mg/kg cân nặng, ngày 3 uống 5 mg/kg cân nặng hoặc
  • Hoặc artesunat tổng liều 16 mg/kg cân nặng chia làm 7 ngày điều trị: ngày 1 uống 4 mg/kg cân nặng, từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 7 uống 2 mg/kg cân nặng (không dùng artesunat cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu trừ trường hợp sốt rét ác tính)
  • Hoặc Quinin sulfat liều 30 mg/kg/24 giờ chia 3 lần uống trong ngày, điều trị trong 7 ngày.

Nhiễm Plasmodium falciparum

  • Thuốc phối hợp có dẫn xuất artemisinin: thuốc viên Arterakine hoặc CV artecan (40mg dihydroartemisinin + 320mg piperaquine phosphat)
  • Liều dùng:

Dưới 3 tuổi: ngày đầu 1 viên, hai ngày sau mỗi ngày 1/2 viên.

Từ 3 đến dưới 8 tuổi: ngày đầu 2 viên, hai ngày sau mỗi ngày 1 viên.

Từ 8 đến dưới 15 tuổi: ngày đầu 3 viên, hai ngày sau mỗi ngày 1,5 viên.

Từ  15 tuổi trở lên: ngày đầu 4 viên, hai ngày sau mỗi ngày 2 viên.

Không dùng cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu.

Điều trị chống tái phát và chống lây lan

  • Primaquine viên 13,2mg chứa 7,5mg bazơ
  • Liều dùng: 0,5mg bazơ/kg cân nặng/ 24 giờ

Với Plasmodium falciparum điều trị 1 ngày

Với Plasmodium vivax điều trị 10 ngày liên tục

  • Không dùng primaquine cho trẻ em dưới 3 tuổi, phụ nữ có thai, người có bệnh gan và người thiếu men G6PD.

Điều trị sốt rét ác tính

  • Artesunat tiêm tĩnh mạch

Liều dùng: giờ đầu 2,4 mg/kg cân nặng, 24 giờ sau tiêm nhắc lại 1,2 mg/kg cân nặng, sau đó mỗi ngày tiêm 1 liều 1,2 mg/kg cân nặng cho đến khi bệnh nhân có thể uống được thì chuyển sang thuốc uống cho đủ 7 ngày.

Chú ý điều trị triệu chứng và biến chứng tuỳ thể sốt rét biến chứng.

Cách phòng bệnh sốt rét

Để phòng bệnh sốt rét, người dân cần ngủ mùng dù ở trong nhà, nương rẫy, hay đi du lịch trong rừng. Những khu vực có muỗi Anophen lưu hành cần diệt muỗi bằng phun thuốc định kỳ, tẩm màn hóa chất để diệt muỗi, xoa kem và hương xua muỗi, phát quang bụi rậm, khơi thông cống rãnh quanh nhà, khơi thông dòng chảy, vớt rong rêu làm thoáng mặt hồ nước, làm nhà xa rừng và xa nguồn nước, mặc quần áo dài buổi tối,…

Ngoài ra, những khu vực bệnh sốt rét lưu hành thường xuyên thì người dân còn được uống thuốc dự phòng ngắn ngày, xác định sớm ca bệnh để khoanh vùng dịch.

Leave a reply