Uốn ván là bệnh lý truyền nhiễm vô cùng nguy hiểm, nhất là ở trẻ em với tỷ lệ tử vong lên đến 95% nếu phát bệnh. Bệnh uốn ván có những biểu hiển “đáng sợ”, nếu may mắn vượt qua và sống sót, nguy cơ cao trẻ sẽ phải đối diện với nhiều di chứng vĩnh viễn.

Bệnh uốn ván là gì?

Bệnh uốn ván là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do ngoại độc tố (Tetanus exotoxin) của vi khuẩn uốn ván (tên khoa học là Clostridium tetani) phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí. Khi bị nhiễm khuẩn, độc tố được tiết ra và ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể, gây tổn thương não và hệ thần kinh trung ương, dẫn đến cứng cơ và có thể gây tử vong nhanh.

Biểu hiện cụ thể là những cơn co cứng cơ kèm theo đau, trước tiên là các cơ nhai, cơ mặt, cơ gáy và sau đó là cơ thân.

Với tỷ lệ tử vong rất cao, dao động từ 25-90%, đặc biệt là ở trẻ sơ sinh với 95%. Bệnh phân bố rộng khắp tại các tỉnh thành trong cả nước và có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai trong mùa nào trong năm. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh tăng đáng kể ở các vùng nông thôn, đặc biệt là các địa phương vùng sâu vùng xa, tỷ lệ tiêm chủng vắc xin còn thấp.

Nguyên nhân gây bệnh

Bệnh uốn ván gây ra do vi khuẩn uốn ván Clostridium tetani xâm nhập vào cơ thể thông qua các vết trầy xước và vết thương tiếp xúc trực tiếp với đất, cát bụi, phân trâu bò ngựa và gia cầm, cống rãnh hoặc dụng cụ phẫu thuật không được tiệt trùng kỹ. Những vết thương này có thể phát triển thành ổ nhiễm trùng và gây ra bệnh uốn ván.

Trẻ sơ sinh cũng có khả năng mắc bệnh uốn ván nếu quá trình cắt dây rốn không đảm bảo vô trùng, cha mẹ chưa biết cách chăm sóc rốn cho trẻ cẩn thận.

Vi khuẩn uốn ván là loại vi khuẩn gram dương có lông quanh thân và di động trong môi trường yếm khí. Trong tự nhiên, chúng thường tạo thành nha bào hình cầu tròn, tự do hoặc nằm ở một đầu của tế bào trực khuẩn, tạo thành hình dùi trống.

Vi khuẩn uốn ván tồn tại trong ruột của súc vật, đặc biệt là trong ruột của các đại gia súc ăn cỏ như ngựa, trâu, và bò. Ngoài ra, vi khuẩn này cũng có thể tồn tại trong ruột của con người một cách bình thường mà không gây bệnh.

Nha bào uốn ván có thể được tìm thấy trong đất và trên các đồ vật đã bị nhiễm bẩn bởi phân của súc vật hoặc con người. Chúng hiện diện ở mọi nơi trong môi trường tự nhiên và có khả năng gây nhiễm trùng cho tất cả các loại vết thương.

 Vi khuẩn uốn ván sẽ chết ở nhiệt độ 56 độ C nhưng nha bào uốn ván lại tồn tại rất bền vững, đặc biệt nha bào còn khả năng gây bệnh sau 5 năm tồn tại trong đất. Các dung dịch sát trùng như phenol, formalin có thể diệt nha bào sau 8 – 10 tiếng. Nha bào sẽ chết sau khi đun sôi 30 phút.

Dấu hiệu của khi nhiễm bệnh uốn ván

Thời kỳ ủ bệnh

Tính từ khi có vết thương đến khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên của bệnh uốn ván, thường là biểu hiện cứng hàm. Thời kỳ ủ bệnh có thể từ 3-21 ngày. Sau khi bị thương, khoảng 15% trường hợp khởi phát bệnh trong vòng 3 ngày và 10% phát bệnh sau 14 ngày, trung bình là 7 ngày. Thời kỳ ủ bệnh càng ngắn (< 7 ngày) thì bệnh càng nặng.

Thời kỳ khởi phát

Tính từ lúc cứng hàm đến khi có cơn co giật đầu tiên hoặc cơn co thắt hầu họng – thanh quản đầu tiên, thường từ 1-7 ngày. Thời gian khởi phát càng ngắn (< 48 giờ) bệnh càng nặng.

Triệu chứng khởi đầu là cứng hàm: lúc đầu mỏi hàm, nói khó, nuốt vướng, khó nhai, khó há miệng tăng dần và liên tục. Khi dùng đè lưỡi ấn hàm xuống thì hàm càng cắn chặt hơn (dấu hiệu trismus). Dấu hiệu này gặp ở tất cả các người bệnh.

Ngoài ra người bệnh còn bị co cứng các cơ khác:

  • Tình trạng co cứng các cơ mặt làm cho nếp nhăn trán hằn rõ, hai chân mày cau lại, rãnh mũi má hằn sâu.
  • Tình trạng co cứng cơ gáy: cổ bị cứng và ngửa dần, 2 cơ ức đòn chũm nổi rõ.
  • Co cứng cơ lưng: lưng uốn cong hay ưỡn thẳng lưng.
  • Co cứng cơ bụng: 2 cơ thẳng trước gồ lên và sờ vào bụng thấy cứng.
  • Co cứng cơ ngực, cơ liên sườn: lồng ngực hạn chế di động.
  • Co cứng cơ chi trên: luôn có tư thế gập tay.
  • Co cứng chi dưới tạo tư thế duỗi.

Khi kích thích, các cơn co cứng tăng lên làm cho người bệnh rất đau. Có thể gặp các biểu hiện khác như: bồn chồn, sốt cao, vã mồ hôi và nhịp tim nhanh.

Bệnh nhân bị co cứng các cơ

Thời kỳ toàn phát

Từ khi có cơn co giật toàn thân hay cơn co thắt hầu họng/thanh quản đầu tiên đến khi bắt đầu thời kỳ lui bệnh, thường kéo dài từ 1-3 tuần với các biểu hiện:

  • Co cứng cơ toàn thân liên tục, tăng lên khi kích thích, người bệnh rất đau, co cứng điển hình làm cho người người bệnh ưỡn cong.
  • Co thắt thanh quản gây khó thở, tím tái, ngạt thở dẫn đến suy hô hấp, ngừng tim.
  • Co thắt hầu họng gây khó nuốt, nuốt vướng, ứ đọng đờm rãi, dễ bị sặc.
  • Co thắt các cơ vòng gây bí tiểu, bí đại tiện.
  • Cơn co giật toàn thân trên nền co cứng cơ xuất hiện tự nhiên, tăng lên khi kích thích. Trong cơn co giật, bệnh nhân vẫn tỉnh, nắm chặt tay, uốn cong lưng và tay ở tư thế dạng hoặc gấp, chân duỗi, thường bệnh nhân có thể ngừng thở khi ở các tư thế này. Cơn giật kéo dài vài giây đến vài phút hoặc hơn. Trong cơn giật, rất dễ bị co thắt thanh quản, co cứng cơ hô hấp dẫn đến giảm thông khí, thiếu oxy, tím tái, ngừng thở, và có thể tử vong.
  • Rối loạn thần kinh thực vật gặp trong trường hợp nặng với các biểu hiện: da xanh tái, vã mồ hôi, tăng tiết đờm dãi, sốt cao 39 – 40 độ C hoặc hơn, tăng hoặc hạ huyết áp, huyết áp dao động, loạn nhịp tim có thể ngừng tim.

Thời kỳ lui bệnh

Bắt đầu khi các cơn co giật toàn thân hay co thắt hầu họng/thanh quản bắt đầu thưa dần, tình trạng co cứng toàn thân còn kéo dài nhưng mức độ giảm dần; miệng từ từ há rộng; phản xạ nuốt dần trở lại. Thời kỳ này kéo dài vài tuần đến hàng tháng tuỳ theo mức độ nặng của bệnh.

Uốn ván ở trẻ sơ sinh hay còn gọi là uốn ván rốn

Trẻ đẻ ra bình thường trong 2 ngày đầu, bệnh xuất hiện từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 28 sau sinh, thường khởi phát trong 2 tuần đầu sau khi sinh. Triệu chứng thường gặp là cứng hàm làm cho trẻ không thể bú được, co cứng toàn thân, người ưỡn cong và dễ dẫn đến tử vong nếu không được điều trị kịp thời.

Biến chứng của bệnh uốn ván

Uốn ván gây ra những biến chứng hết sức nặng nề, khó hồi phục.

  • Co thắt thanh quản: không thể kiểm soát dây thanh âm, giảm lượng khí đi vào phổi có thể gây ra suy hô hấp.
  • Thuyên tắc phổi: cục máu đông di chuyển trong máu, do sự co thắt các cơ có thể bị kẹt lại ở các mạch máu phổi làm cho máu không thể di chuyển lên phổi trao đổi được.
  • Viêm phổi: do các cơ bị co thắt nên người bệnh rất dễ hít phải dịch tiêu hoá, cũng như các chất từ dạ dày. Các chất này là chất lạ nên khi tiếp xúc với phổi sẽ gây ra phản ứng viêm ở phổi. Người ta gọi tình trạng này là viêm phổi hít.
  • Gãy xương: các cơn co thắt, co giật, đặc biệt là những cơn co cứng gồng mình do uốn ván gây ra có thể gây ra các lực rất mạnh làm xoắn, vặn xương gây ra tình trạng gãy xương.
  • Biến chứng nặng nhất của uốn ván đó là người bệnh có thể tử vong.

Điều trị bệnh uốn ván

Hiện tại, không có phương pháp chữa trị hiệu quả bệnh uốn ván. Nếu nhiễm trùng uốn ván xảy ra, bệnh nhân cần được chăm sóc và điều trị khẩn cấp và lâu dài để giúp hạn chế triệu chứng bệnh và tăng cường đề kháng. Việc điều trị là chăm sóc vết thương, sử dụng thuốc giảm triệu chứng và cung cấp chăm sóc hỗ trợ chuyên nghiệp, thường là trong phòng chăm sóc đặc biệt.

Điều trị bệnh uốn ván có nguyên tắc là tiêu diệt vi khuẩn, trung hòa độc tố và ngăn ngừa các cơn co cứng cơ (sử dụng kháng sinh để tiêu diệt tận gốc tế bào thực vật). Ngoài ra, bệnh nhân cần được chăm sóc và theo dõi thường xuyên để phát hiện và xử lý các vấn đề hô hấp. Trong một số trường hợp, có thể sử dụng kháng độc tố uốn ván để vô hiệu quá độc tố đang lưu hành ở vết thương và trong máu.

Các phương pháp điều trị cụ thể

  • Dùng kháng sinh: nhằm tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên, phương pháp này không thể tiêu diệt hoàn toàn vi khuẩn uốn ván mà chỉ có tác dụng đề phòng các vi khuẩn bội nhiễm đi kèm.
  • Dùng kháng độc tố uốn ván: vô hiệu hóa độc tố lưu hành trong máu và độc tố ở vết thương nhằm làm giảm tỷ lệ tử vong. Nên tiêm kháng độc tố trước khi điều trị vết thương.
  • Kiểm soát cơn co cứng: sử dụng các thuốc an thần như diazepamlorazepam,… để giảm co cứng. Trong trường hợp các thuốc trên không thể hạn chế được tình trạng co cứng có thể phải dùng thuốc tác động vào hệ thần kinh kết hợp với thở máy.
  • Cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng qua đường tĩnh mạch hoặc qua sonde dạ dày.
  • Dùng các chất chống đông như heparin để ngăn ngừa tắc mạch.
  • Theo dõi các chức năng của thận, phổi, bàng quang, dạ dày,…
  • Vật lý trị liệu để phòng trường hợp cứng cơ.
  • Dùng vacxin gây miễn dịch chủ động sau khi đã khỏi bệnh.

Việc chăm sóc bệnh nhân cần thực hiện trong một môi trường yên tĩnh để giám sát chức năng tim, phổi và hạn chế các tác nhân kích thích. Bảo vệ đường thở và vết thương sạch sẽ là rất quan trọng, cần loại bỏ triệt để các vật dị cắm vào vết thương.

Tiêm phòng vắc xin là cách ngừa nhiễm bệnh hiểu quả

Cách phòng ngừa uốn ván

Hiện nay, tiêm vắc xin phòng bệnh uốn ván được coi là biện pháp phòng ngừa tốt nhất. Có nhiều loại vắc xin phù hợp cho từng đối tượng, bao gồm cả trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai và người lớn. Vì vậy, mọi đối tượng nên tiêm vắc xin để ngăn ngừa lây nhiễm, mắc bệnh và giảm thiểu tối đa nguy cơ tử vong do bệnh lý nguy hiểm này.

Ở trẻ nhỏ, có thể sử dụng vắc xin phối hợp phòng uốn ván và nhiều bệnh quan trọng khác trong cùng 1 mũi tiêm. Trẻ em phòng bệnh uốn ván từ 2 tháng tuổi có trong thành phần của các loại vắc xin 6 trong 1. Cha Mẹ cần đảm bảo đưa trẻ đi tiêm đúng lịch, đủ mũi, đúng liều để đảm bảo hiệu quả tiêm phòng ở mức tối đa, giúp duy trì ổn định tình trạng miễn dịch chống lại bệnh.

Ngoài ra, khi có vết thương trên da, cần lưu ý rửa sạch và sát trùng vết thương. Nên để hở vết thương và không bịt kín để tránh viêm nhiễm. Nếu bị dẫm phải vật nhọn như đinh, sắt hay gai thì cần xử lý vết thương ngay lập tức, sau đó đến bệnh viện để được thăm khám và điều trị phòng ngừa bệnh uốn ván. Người bệnh cần luôn giữ vết thương sạch để tránh nhiễm trùng và nguy cơ hoại tử.

Các trung tâm tiêm chủng bạn có thể tham khảo

Tại thành phố Hồ Chí Minh

  • Trung tâm tiêm chủng VNVC
  • Viện Pasteur TP.HCM
  • Bệnh viện Nhi đồng 1
  • Bệnh viện đa khoa Xuyên Á
  • Bệnh viện Từ Dũ

Tại Hà Nội

  • Trung tâm tiêm chủng VNVC
  • Trung tâm kiểm soát bệnh tật Thành phố Hà Nội
  • Phòng tiêm chủng SAFPO
  • Trung tâm dịch vụ y tế dự phòng
  • Phòng tiêm chủng – Đại học Y Hà Nội

Leave a reply