Dịch hạch là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm được gây ra bởi vi khuẩn. Bệnh dịch hạch còn gọi là cái chết đen và là nỗi ám ảnh xảy ra ở Châu Âu và Châu Á vào những năm giữa thế kỷ XIV.

Bệnh dịch hạch là gì?
Bọ chét bị nhiễm khuẩn là vật trung gian gây bệnh

Dịch hạch là bệnh gì?

Dịch hạch là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây lan nhanh mạnh gây nguy hiểm đe dọa tính mạng của người bị nhiễm với tỷ lệ tử vong cao. Được gây ra bởi vi khuẩn Yersinia pestis, thuộc họ Enterobacteriaceae. Bệnh thường gặp ở động vật gặm nhấm như chuột, thỏ… dịch hạch lây lan qua con người và động vật khác thông qua vật trung gian là bọ chét bị nhiễm khuẩn.

Dịch hạch còn được gọi là “Cái chết Đen”, là một trong những căn bệnh tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại. Bệnh bắt đầu xuất hiện ở châu Á và châu Âu thời trung cổ. Sau đó nó bùng phát ở châu Âu từ năm 1347 đến 1351 làm chết khoảng 25 triệu người (chiếm khoảng 1/3 dân số châu Âu lúc bấy giờ).

Năm 1989, ở Việt Nam ghi nhân trường hợp mắc bệnh dịch hạch đầu tiên, nửa cuối thập niên 1960 tới đầu thập niên 1970 dịch hạch bùng nổ mạnh mẽ ở Việt Nam và một số nước châu Á. Cho tới nay, dịch hạch trên thế giới đã được khống chế, tuy nhiên vẫn xuất hiện ở một số nước kém hoặc đang phát triển.

Vật chủ chứa mầm bệnh

Mầm bệnh truyền nhiễm chủ yếu là các loài động vật hoang dã, chủ yếu là loài chuột (chuột đồng, chuột cống, chuột nhắt,…). Mầm bệnh thường tồn tại xung quanh nơi chuột sinh sống, đặc biệt là các khu dân cư.

Con đường lây lan

Bọ chét Xenopsylla cheopis, rận hoặc chấy được xem là vật chủ trung gian lây truyền bệnh dịch hạch. Sau khi hút máu vật chủ nhiễm bệnh, vi khuẩn bị tắc nghẽn trong vật trung gian sẽ truyền qua người bởi các vết đốt, vết cắn.

Ngoài ra, dịch hạch còn lây truyền trực tiếp từ vật chủ mang bệnh sang vật chủ lành, mà không thông qua trung gian thông qua các con đường như:

  • Đường hô hấp: Bệnh nhân Dịch hạch thể phổi có thể lây truyền bệnh cho những người xung quanh qua nước bọt bắn ra khi ho hoặc hắt hơi. Hoặc người lành hít phải vi khuẩn Dịch hạch trong không khí do vật chủ chết vì Dịch hạch.
  • Đường da, niêm mạc: Các vi khuẩn Dịch hạch còn có thể xâm nhập vào cơ thể qua da khi bị trầy xước, tổn thương. Đây là những trường hợp bệnh Dịch hạch khá hiếm gặp.
  • Đường tiêu hóa: Người lành ăn phải thức ăn bị nhiễm khuẩn do chuột trực tiếp gieo rắc mầm bệnh. Tuy nhiên, con đường lây truyền này cũng rất hiếm gặp do vi khuẩn Dịch hạch sẽ chết khi thức ăn được nấu chín.

Những dấu hiệu của bệnh

Thời xa xưa người ta gọi dịch hạch là “Cái chết Đen” vì khi mắc bệnh sẽ xuất hiện các hạch nổi khắp cơ thể. Sau đó mạch máu trong hạch vỡ ra làm nó trở thành những cục máu đen cản trở sự lưu thông của máu. Những cục máu đen tụ lại thành những vết lớn có màu đen.

Dịch hạch bao gồm các thể bệnh: thể hạch, thể nhiễm khuẩn huyết, thể phổi và thể da.

Thể hạch

Thể hạch thường phát bệnh đột ngột. Các triệu chứng biểu hiện của thể hạch là ớn lạnh, mệt mỏi, đau cơ, đau đầu, buồn nôn. Sau khi phát bệnh, thể hạch chuyển sang giai đoạn toàn phát với các triệu chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc và sưng hạch. Tùy vào tình trạng bệnh ở mỗi người mà kích thước của hạch khác nhau, có thể to bằng ngón tay cái, cũng có thể to bằng quả trứng gà. Lúc đầu, hạch cứng và chắc, sau hạch mềm hóa mủ.

Thể hạch có thể tiến triển đột ngột thành nhiễm khuẩn tối cấp với triệu chứng sốt cao khoảng 40 – 41 độ C, nhiễm khuẩn, nhiễm độc, huyết áp giảm, mạch nhanh, rối loạn tinh thần, hôn mê và thường tử vong trong vòng 3 – 5 ngày. Nếu không được điều trị, vi khuẩn có thể lan tràn qua đường máu và lây nhiễm vào phổi, gây bệnh dịch hạch thể phổi thứ phát.

Thể nhiễm khuẩn huyết

Bệnh Dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết biểu hiện tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc ngay cả khi hạch ngoại vi chưa viêm. Một số triệu chứng lâm sàng của bệnh Dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết là: sốt cao trên 40 độ, rối loạn hô hấp và tim mạch, tiêu chảy, xuất huyết da, niêm mạc và cơ quan, trong những trường hợp nặng bệnh nhân có thể mê sảng và li bì. Thể nhiễm khuẩn huyết thường là thứ phát sau dịch hạch thể hạch không được điều trị.

Thể phổi

Bệnh Dịch hạch thể phổi có thể lây truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành, từ đó bùng phát thành đại dịch. Do đó, bệnh Dịch hạch thể phổi được đánh giá là rất nguy hiểm. Một số dấu hiệu có thể gặp ở người bệnh Dịch hạch thể phổi là sốt, suy nhược, viêm phổi tiến triển nhanh với triệu chứng khó thở, đau ngực, ho và đôi khi có đờm loãng, đờm máu. Bệnh Dịch hạch thể phổi có thể tiến triển thành suy hô hấp, sốc và tử vong nhanh chóng.

Thể da

Bệnh Dịch hạch thể da thường có các nốt dát xuất hiện tại vị trí vi khuẩn xâm nhập, sau tiến triển thành mụn nước, mụn mủ lẫn máu. Vùng da xung quanh mụn mủ xung huyết và thâm nhiễm. Khi mụn mủ vỡ sẽ để lại những vết loét với đáy thâm nhiễm vàng, phủ vảy đen (giống bệnh than).

Biến chứng của bệnh dịch hạch

Bệnh Dịch hạch không chỉ có tỷ lệ tử vong cao nếu không được điều trị kịp thời, mà còn có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm cho bệnh nhân như hoạt tử đầu chi và viêm màng não.

Hoạt tử đầu chi là tình trạng xảy ra khi các cục máu đông trong các mạch máu nhỏ ở ngón tay, ngón chân làm gián đoạn lưu lượng máu và khiến mô đó chết. Cách xử lý khi các phần của ngón tay và ngón chân đã bị hoại tử thường là cắt cụt.

Ngoài hoạt tử đầu chi, Dịch hạch còn có thể gây viêm màng bao quanh não và tủy sống (biến chứng Viêm màng não), tuy rằng trường hợp này rất hiếm.

Điều trị dịch hạch

Khi có dấu hiệu của Dịch hạch, bệnh nhân cần phải được cách ly và nhập viện ngay. Người thân từng tiếp xúc với bệnh nhân Dịch hạch cần phải dùng kháng sinh dự phòng nhóm tetracyclines hoặc cloramphenicol để dự phòng phơi nhiễm.

Trong quá trình điều trị bệnh, các bác sĩ có thể sử dụng các loại kháng sinh

  • Nhóm aminoglycosides (streptomycin, gentamycin)
  • Nhóm tetracyclines (tetracyclin, doxycycline)
  • Nhóm fluoroquinolones (ciprofloxacin, levofloxacin)
  • Nhóm sulfonamides (trimethoprim – sulfamethoxazole)
  • Chloramphenicol.

Trong đó, kháng sinh streptomycin hiệu quả nhất trong điều trị dịch hạch, có thể dùng đơn độc hoặc phối hợp với các loại thuốc kháng sinh khác.

Trong quá trình điều trị bệnh, việc lựa chọn và kết hợp các loại kháng sinh khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như chức năng thận, khả năng dung nạp kháng sinh của bệnh nhân, tác dụng phụ của thuốc, độ tuổi, giới tính và tình trạng bệnh. Do tác dụng phụ của thuốc, nên phụ nữ và trẻ em là hai nhóm đối tượng mà lợi ích và nguy cơ nên được cân nhắc kỹ lưỡng trong quá trình điều trị.

Song song với việc điều trị bệnh bằng thuốc kháng sinh, cần kết hợp với việc điều trị các triệu chứng: giảm đau, truyền dịch, hạ sốt, chống suy đa phủ tạng, hồi sức. Trong trường hợp điều trị muộn, hạch hóa mủ cần phải chích rạch, tháo mủ để bệnh nhân hết sốt và khỏi bệnh.

Khi người thân hoặc những người tiếp xúc gần với người bệnh sẽ được theo dõi chặt chẽ và bác sĩ có thể kê kháng sinh như một biện pháp phòng ngừa.

Mọi người cần chủ động vệ sinh môi trường, nơi ở, tránh để chuột chui rút và làm tổ. Ăn chín, uống sôi và phải đảm bảo đồ ăn, thực phẩm được che đậy an toàn tránh để chuột tiếp xúc. Khi có biểu hiện nghi ngờ nhiễm bệnh, người dân cần phải đến các cơ sở y tế để được khám bệnh và điều trị kịp thời.

Leave a reply